1. Căn cứ xác định thẩm quyền trọng tài
1.1. Thẩm quyền của trọng tài Việt Nam
Thẩm quyền của trọng tài Việt Nam được quy định cụ thể tại Luật trọng tài thương mại năm 2010 như sau:
Theo như Điều 5 khoản 1 của Luật trọng tài thương mại 2010:
“Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.”
Như vậy, để một việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại, điều kiện trước hết phải là giữa các bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài. Ở đây, ta có thể thấy sự tôn trọng thỏa thuận của các bên: trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu như được các bên có “vụ việc” lựa chọn, không có sự ép buộc nào cả, tất cả đều dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Thêm vào đó, thời điểm thỏa thuận về giải quyết trọng tài như vậy, theo đánh giá chung là rất thoáng và linh hoạt cho các bên khi lựa chọn, không nhất thiết phải thỏa thuận trước mà có thể sau khi xảy ra tranh chấp, các bên chỉ cần quan tâm vấn đề làm như thế nào cho đúng quy định, không làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài thì việc giải quyết sẽ được thực hiện theo hình thức trọng tài thương mại.
Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
- Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
- Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
- Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
1.2. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế
Trọng tài thương mại quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên, chỉ có thẩm quyển khi các bên thỏa thuận lựa chọn. Thỏa thuận trọng tài có thể phát sinh trước hoặc sau thời điểm phát sinh tranh chấp
Điều 21(1) Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976 quy định:
“Hội đồng trọng tài có quyền quyết định về việc phản đối Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết, kể cả những sự phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài riêng biệt”.
Hoặc khoản 1 Điều 23 Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 2010 quy định:
“Hội đồng trọng tài có thẩm quyền quyết định về thẩm quyền của chính nó, bao gồm bất kỳ sự phản đối nào có liên quan tới sự tồn tại và hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Vì mục đích đó, một điều khoản trọng tài là một phần của hợp đồng sẽ độc lập với phần còn lại của hợp đồng. Một quyết định của hội đồng trọng tài cho rằng hợp đồng vô hiệu sẽ không tự động làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu theo.”
Tại khoản 1 Điều 16 Luật Mẫu của UNCITRAL 2006 cũng có những quy định tương tự:
“Hội đồng trọng tài có thể quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài.”
Hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận “nguyên tắc thẩm quyền của thẩm quyền” như là một nguyên tắc cơ bản khi xem xét về thẩm quyền của một trọng tài. Nguyên tắc này dễ dàng tìm thấy trong pháp luật trọng tài của Thụy Sĩ, Đức, Hoa Kỳ, Pháp, Anh v.v. Ví dụ, khoản 1 Điều 1040 Luật Trọng tài Đức 1998 quỵ định:
‘’Hội đồng trọng tài có thể phản quyết về thẩm quyền của chính nó và sự tồn tại hay hiệu lực của thoả thuận trọng tài…”
2. Căn cứ xác định phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài
Phạm vi thẩm quyền trọng tài trong pháp luật trọng tài của Hồng Kông và quy tắc trọng tài UNCITRAL quy định trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp khi có phát sinh từ hợp đồng tức là những tranh chấp ngoài hợp đồng thì trọng tài sẽ không được phép giải quyết cụ thể tại khoản 1 điều 1 Quy tắc trọng tài UNCITRAL và Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (HKIAC) 1985 cũng chỉ áp dụng giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng:
“Nếu các bên trong một hợp đồng đã thoả thuận bằng văn bản rằng tranh chấp có liên quan tới hợp đồng đó sẽ được giải quyết bởi trọng tài theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL thì tranh chấp đó sẽ được giải quyết phù hợp với Quy tắc trọng tài này… ”.
Trong khi đó, đại đa số pháp luật các nước cũng như pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế đều cho phép giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp dù có hợp đồng hay không.
Luật Trọng tài Anh, Đức, Ca-na-đa, Trung Quốc, Nhật Bản, Sin-ga-po, Luật Mẫu UNCITRAL, Quy tắc trọng tài ICC, LCIA, SIAC, JCAA v.v. đều cho phép trọng tài giải quyết các tranh chấp cho dù có hợp đồng hay không. Khoản 1 Điều 6 Luật Trọng tài Anh 1996 quy định:
“một thỏa thuận trọng tài có nghĩa là một thỏa thuận đệ trình tới trọng tài các tranh chấp hiện tại hoặc trong tương lai dù có hợp đồng hay không”.
Hay, khoản 1 Điều 1029 Luật Trọng tài Đức 1998 quy định:
‘‘Một thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận được lập bởi các bên đệ trình tới trọng tài tất cả hoặc những tranh chấp nhất định đã phát sinh hoặc có thể sẽ phát sinh giữa họ liên quan tới một quan hệ pháp lý xác định, dù có hợp đồng hay không”.
Xác định “khả năng trọng tài” còn buộc chúng ta phải trả lời câu hỏi: liệu trọng tài có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh từ các lĩnh vực khác nhau hay không? Thực tế là, ngày nay, hầu hết pháp luật các nước đều mở rộng thẩm quyền của trọng tài, theo đó cho phép trọng tài có khả năng giải quyết không chỉ tranh chấp thương mại mà còn các tranh chấp lao động, dân sự khác. Điều 1 Luật Trọng tài Brazil 1996 quy định: “Mọi người có khả năng ký kết hợp đồng đều có thể đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan tới các quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định Các quy định tương tự cũng được tìm thấy tại Điều 2 Luật Trọng tài Trung Quốc 1994, khoản 1 Điều 1030 Luật Trọng tài Đức 1998, Điều 1 Luật Trọng tài.
Tuy nhiên, việc mở rộng thẩm quyền trọng tài cũng có giới hạn của nó, khi nhà nước cần can thiệp trực tiếp vào các tranh chấp “không chỉ liên quan tới quyền lợi cá nhân đương sự mà còn liên quan tới quyền lợi của bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng”. Chẳng hạn, các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân, thừa kế, một số tranh chấp về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh, phá sản, tranh chấp từ quan hệ hành chính v.v. phải do tòa án hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ, điều 3 Luật Trọng tài Trung Quốc 1994 quy định:
“Tranh chấp về các vấn đề sau không thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài: 1) Các tranh chấp về hôn nhân, nuôi con nuôi, giám hộ, cấp dưỡng và thừa kế; 2) Các tranh chấp hành chỉnh theo luật sẽ được giải quyết bởi các cơ quan hành chính”.
Hoặc, khoản 2 Điều 1030 Luật Trọng tài Đức 1998 quy định:
“Một thoả thuận trọng tài liên quan tới những tranh chấp về sự tồn tại của một hợp đồng cho thuê nhà để ở trong phạm vi nước Đức sẽ bị vô hiệu…
Trên đây là những vấn đề về xác định thẩm quyền trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chúng tôi rất sẵn lòng lắng nghe và giải quyết mọi khó khăn của quý khách liên quan đến Pháp luật về Doanh nghiệp.
Gọi ngay tới số Hotline: 0962.264.737 hoặc tới địa chỉ Công ty tại 176 Đường Láng – Thịnh Quang – Đống Đa – Hà Nội để nhận được sự hỗ trợ.
DN0059