Văn bản công chứng là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phòng ngừa tranh chấp, tạo ra sự ổn định trong các quan hệ dân sự, tuy nhiên không phải trường hợp nào công chứng viên cũng đồng ý công chứng.
Khái niệm công chứng
Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Các trường hợp từ chối công chứng
Trường hợp công chứng thuộc các hành vi bị cấm
Theo điểm b và c Điều 7 Luật Công chứng 2014 thì nghiêm cấm công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác. Theo các quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng, giao dịch, bản dịch khi có mục đích và nội dung trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hay giả tạo thì dù trước hay sau khi công chứng đều không có giá trị pháp lý thậm chí nó còn có thể gây nên các tranh chấp trên thực tế. Do đó để tránh các trường hợp văn bản công chứng không có giá trị pháp lý thì công chứng viên từ chối công chứng. Việc công chứng viên xem xét tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, bản dịch cũng chính là đang thực hiện nghĩa vụ “tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng”. Các hành vi gian dối có thể có sự tham gia của chính các công chứng viên do vậy Luật Công chứng 2014 quy định đây là hành vi bị cấm nếu vi phạm, tổ chức hành nghề công chứng sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Sau đó, công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghiêm cấm công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con nuôi. Đây là trường hợp các văn bản được yêu cầu công chứng có nội dung liên quan đến quyền lợi của bản thân công chứng viên hoặc những người thân thích trong gia đình của công chứng viên. Do vậy để đảm bảo tính khách quan, tính xác thực của văn bản công chứng mà công chứng viên phải từ chối công chứng.
Trường hợp công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn
Khoản 5 và 6 Điều 40 Luật công chứng 2014 về Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn quy định hai trường hợp công chứng viên có quyền từ chối công chứng, cụ thể:
– Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.
– Công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch. Nếu trong dự thảo hợp đồng, giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng.
Trường hợp công chứng di chúc
Khoản 2 Điều 56 Luật Công chứng 2014 về Công chứng di chúc quy định: “Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì công chứng viên đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng di chúc đó”. Khi nghi ngờ một trong những nội dung này công chứng viên phải đề nghị người lập di chúc làm rõ nếu không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng di chúc đó bởi khi di chúc bị giả mạo không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người lập di chúc mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế còn lại, gây áp lực lên ngành Tòa án khi phải giải quyết các tranh chấp thừa kế phát sinh.
Trường hợp công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản
Khoản 3 Điều 57 Luật Công chứng 2014 về Công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản quy định: “Công chứng viên phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì từ chối yêu cầu công chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực hiện việc công chứng.”
Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản. Chính vì thế công chứng viên phải có trách nhiệm làm rõ tính hợp pháp của loại văn bản này, ví dụ trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc thì phải có bản sao di chúc, các giấy tờ chứng minh được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (giấy chứng nhận kết hôn, khai sinh, giấy chứng nhận mất khả năng lao động (nếu có),…
Trường hợp công chứng bản dịch
Khoản 4 Điều 61 Luật Công chứng 2014 quy định công chứng viên không được nhận và công chứng bản dịch trong các trường hợp sau đây:
– Trách nhiệm của công chứng viên là phải đảm bảo nội dung bản dịch là chính xác, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nếu không đảm bảo điều kiện đó thì có thể từ chối công chứng.
– Giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch đã bị tẩy xoá, sửa chữa, thêm, bớt hoặc bị hư hỏng, cũ nát không thể xác định rõ nội dung. Khi xuất hiện những yếu tố khiến nội dung của bản dịch không xác định được, không rõ ràng thì công chứng viên từ chối công chứng.
– Giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch thuộc bí mật nhà nước; giấy tờ, văn bản bị cấm phổ biến theo quy định của pháp luật. Theo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 tại Khoản 1 Điều 2 thì “bí mật nhà nước là thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định của Luật này, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc”. Bảo vệ bí mật nhà nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và làm lộ bí mật nhà nước là một trong các hành vi bị nghiêm cấm cho nên công chứng viên từ chối công chứng trong trường hợp này.
Chúng tôi rất sẵn lòng lắng nghe và giải quyết mọi khó khăn của quý khách liên quan đến Pháp luật.
Gọi ngay tới số Hotline: 0962264737 hoặc tới địa chỉ Công ty tại 176 Đường Láng – Thịnh Quang – Đống Đa – Hà Nội để nhận được sự hỗ trợ.
DD992